Phong cách và tác phẩm Vincent_van_Gogh

Phát triển thiên hướng nghệ thuật

Đêm đầy sao trên sông Rhone, 1888, Bảo tàng Musée d'Orsay, Paris

Van Gogh đã vẽ và tô màu nước trong khi còn ngồi trên ghế nhà trường, nhưng chỉ có một vài bức tranh loại này tồn tại và cũng không chắc chắn về tác giả [37]. Khi ông bắt đầu nghiệp vẽ khi đã lớn, ông bắt đầu ở cấp tiểu học. Vào đầu năm 1882, chú của ông, Cornelis Marinus, chủ một phòng trưng bày nghệ thuật đương đại nổi tiếng ở Amsterdam, đã yêu cầu có một bức tranh vẽ La Hay. Tác phẩm của Van Gogh không đạt được mong đợi. Marinus đã ủy nhiệm Van Gogh lần thứ hai, chỉ rõ vấn đề rất chi tiết, nhưng lại phải thất vọng với kết quả. Van Gogh đã kiên trì; ông đã thử nghiệm ánh sáng trong studio của mình bằng các thay đổi cửa chớp và thử với các chất liệu vẽ khác nhau. Trong hơn một năm, ông chỉ làm việc trên những đơn hình mẫu - nghiên cứu rất tỉ mỉ với màu đen và trắng. Thời điểm đó, các bức vẽ của ông đã bị chỉ trích. Sau này, chúng đã được công nhận là những kiệt tác đầu tiên.[38]

Vào tháng 8 năm 1882, em trai Theo đã cho ông tiền để mua chất liệu để có thể vẽ ngoài trời (en-plein-air). Vincent đã viết rằng bây giờ anh có thể "tiếp tục vẽ với nghị lực mới" [39] Từ đầu năm 1883, ông làm việc trên các sáng tác đa hình mẫu. Ông đã chụp ảnh lại một số bức, nhưng khi em trai của ông nhận xét rằng chúng thiếu sự sống động và tươi tắn, ông đã tự hủy chúng và chuyển sang sơn dầu. Van Gogh đã chuyển sang các họa sỹ nổi tiếng của trường phái Hague như WeissenbruchBlommers, và nhận được những lời khuyên về kỹ thuật từ họ. Ông cũng học hỏi từ các họa sĩ như De Bock và Van der Weele, cả hai đều là thế hệ thứ hai của trường phái Hague [40]. Khi ông chuyển đến Nuenen sau thời gian ở Drenthe, ông bắt đầu một số bức tranh lớn nhưng cũng hủy hầu hết trong số chúng. Những người ăn khoai (The Potatto Eaters) và bản vẽ đi kèm là những gì duy nhất còn sót lại [40]. Sau chuyến viếng thăm Rijksmuseum, Van Gogh đã viết về sự ngưỡng mộ của ông đối với những nét đánh bút nhanh, tinh tế của các bậc thầy Hà Lan, đặc biệt là RembrandtFrans Hals [41]. Ông biết rằng nhiều lỗi của ông là do thiếu kinh nghiệm và chuyên môn kỹ thuật [40], vì vậy vào tháng 11 năm 1885 ông sang Antwerp và sau đó là Paris để học hỏi và phát triển kỹ năng của mình [42].

Người gieo hạt, 1850Cơn sóng lừng của Hokusai, thế kỷ XIX

Theo đã phê bình Những người ăn khoai vì bảng màu tối của nó, ông nghĩ nó không phù hợp với một phong cách hiện đại.[43] Trong thời gian lưu lại của Van Gogh ở Paris giữa năm 1886 và năm 1887, ông đã cố gắng làm chủ một bảng màu mới, sáng hơn. Chân dung của ông vẽ Père Tanguy (1887) cho thấy sự thành công của ông với bảng màu sáng hơn, và là dấu hiệu của một phong cách cá nhân đang phát triển [44]. Bài luận của Charles Blanc về màu sắc đã làm ông quan tâm rất nhiều, và ông đã làm việc với màu sắc bổ sung. Van Gogh tin rằng tác động của màu sắc đã vượt qua các mô tả bình thường; ông nói rằng "màu sắc tự nó đã thể hiện một cái gì đó" [45].[46] Theo Hughes, Van Gogh đã nhận ra màu sắc có "giá trị về tâm lý và đạo đức", như được minh họa trong những màu đỏ tươi và màu xanh lá cây của bức Quán cà phê đêm (The Night Cafe), một tác phẩm mà ông muốn "thể hiện sự đam mê ghê gớm của nhân loại".[47] Màu vàng có ý nghĩa nhiều nhất đối với ông, bởi vì nó tượng trưng cho chân lý cảm xúc. Ông sử dụng màu vàng như là một biểu tượng cho ánh sáng mặt trời, cuộc sống, và Chúa.[48]

Van Gogh đã cố gắng để trở thành một họa sĩ về cuộc sống và thiên nhiên ở nông thôn,[49] và trong suốt mùa hè đầu tiên của ông ở Arles, ông đã sử dụng bảng màu mới để vẽ cảnh quan và cuộc sống nông thôn truyền thống [50]. Ông có niềm tin rằng có một sức mạnh tồn tại đằng sau thiên nhiên đã khiến ông cố gắng để có một cảm giác về sức mạnh đó, cũng như vậy dối với tinh tuý của thiên nhiên trong nghệ thuật của mình, đôi khi thông qua việc sử dụng các biểu tượng [51] Những diễn giải của ông về Người gieo hạt (The Sower), một bản sao tranh của Jean-François Millet, phản ánh niềm tin tôn giáo của Van Gogh: người gieo hạt như Chúa Giê-su gieo sự sống dưới ánh mặt trời nóng bỏng [52] Đây là những chủ đề và họa tiết mà ông thường quay trở lại để tái sử dụng và phát triển.[53] Những bức tranh hoa của ông chứa đầy biểu tượng, nhưng thay vì sử dụng biểu tượng Thiên chúa giáo truyền thống, ông tự tạo ra những biểu tượng của mình, đó là cuộc sống dưới ánh mặt trời và công việc là một dụ ngôn về cuộc đời.[54] Hồi ở Arles, ông đã có được sự tự tin sau khi vẽ hoa mùa xuân và học cách nắm bắt ánh sáng mặt trời, ông đã sẵn sàng để vẽ Người gieo hạt.[45]

Van Gogh ở trong cái mà ông gọi là "lớp phủ của thực tại",[55] và phê bình những tác phẩm cách điệu quá mức [56]. Ông đã viết sau này rằng sự trừu tượng trong bức Đêm đầy sao đã đi quá xa, còn hiện thực thì "lùi về sau quá nhiều".[56] Hughes mô tả bức tranh như là một khoảnh khắc cực kỳ ngây ngất về thị giác: các ngôi sao đang ở trong một xoáy tuyệt vời, có thể làm ta gợi nhớ lại cơn sóng thần Hokusai, sự chuyển động trên trời cao được phản chiếu bởi sự chuyển động của cây bách trên mặt đất bên dưới, và tầm nhìn của họa sĩ đã được "dịch thành một lớp sơn dày, mạnh mẽ".[57]

Kí ức ở vườn Etten, 1888. Bảo tàng Hermitage, St Petersburg

Giữa năm 1885 và cái chết của ông vào năm 1890, Van Gogh dường như đang xây dựng một oeurve (một bộ các tác phẩm), đó sẽ là một bộ sưu tập phản ánh cái nhìn cá nhân của ông và có thể thành công về mặt thương mại. Ông bị ảnh hưởng bởi định nghĩa của Blanc về phong cách, rằng một bức tranh đích thực yêu cầu sử dụng tối ưu màu sắc, phối cảnh và các nét đánh bút. Van Gogh đã áp dụng từ "có mục đích" đối với những bức tranh mà ông nghĩ ông đã làm chủ được, trái ngược với những gì ông nghĩ là nghiên cứu hay thử nghiệm [58]. Ông đã vẽ rất nhiều những thử nghiệm như vậy, hầu hết là được giữ lại, một số thì hủy như các thí nghiệm về màu sắc hoặc làm quà tặng cho bạn bè [59]. Tác phẩm của Arles góp phần đáng kể cho oeurve của ông: những tác phẩm mà ông cho là quan trọng nhất từ ​​lúc đó là Người gieo hạt, Quán cà phê đêm, Kí ức vườn ở Etten (Memory of the Garden in Etten) và Đêm đầy sao. Với những lượng lớn nét cọ, những điểm nhìn sáng tạo, màu sắc, đường viền và thiết kế, những bức tranh này đại diện cho phong cách mà ông đã tìm kiếm [56].

Những loạt tác phẩm chính

Sự phát triển về phong cách của Van Gogh thường liên quan đến những khoảng thời gian ông sống ở những nơi khác nhau trên khắp châu Âu. Ông có khuynh hướng đắm mình trong văn hoá địa phương và điều kiện ánh sáng, mặc dù ông vẫn giữ một cái nhìn cá nhân rất cao. Con đường thăng tiến của ông với tư cách là một họa sĩ rất chậm chạp, ông cũng tự nhận thức được những hạn chế của mình. Ông thường xuyên về nhà, có thể để tìm ra những kích thích thị giác mới, và tiếp tục phát triển kỹ năng của mình [60]. Nhà sử học nghệ thuật Melissa McQuillan tin rằng những lần di chuyển này cũng phản ánh những thay đổi về phong cách sau này. Và Van Gogh cũng dùng những lần di chuyển này này để tránh xung đột và cũng như một hình thức đấu tranh khi Van Gogh-một họa sĩ mơ mộng và lý tưởng hóa cuộc sống lại phải đối mặt với sự thực nghiệt ngã của nó.[61]

Chân dung

L'Arlésienne: Bà Ginoux với những quyển sách, Tháng 11 1888. Bảo tàng Nghệ thuật Trung tâm, New York

Những bức chân dung đã cho Van Gogh cơ hội tốt nhất để kiếm thu nhập. Ông tin rằng tranh chân dung là "thứ duy nhất trong các bức tranh làm tôi cảm động sâu sắc và cho tôi cảm giác về vô tận" [62][63]. Ông viết cho chị gái mình rằng ông muốn vẽ chân dung mà sẽ trường tồn, và ông sẽ sử dụng màu sắc để nắm bắt cảm xúc và tính cách của họ hơn là vẽ tả thực như chụp ảnh[64] Những người thân cận nhất với Van Gogh hầu như không có mặt trong loạt tranh chân dung của ông; ông hiếm khi vẽ Theo, Van Rappard hoặc Bernard. Những bức chân dung của mẹ ông là vẽ từ ảnh chụp [65].

Vào tháng 12 năm 1888, ông đã vẽ bức La Berceuse - một hình mẫu mà ông cho là tốt như những bông hoa hướng dương ông từng vẽ. Bức tranh có không dùng nhiều màu, những nét cọ khác nhau và các đường nét đơn giản [56] Nó dường như là đỉnh cao trong loạt chân dung của gia đình Roulin hoàn thành tại Arles giữa tháng mười một và tháng mười hai. Các bức chân dung cho thấy một sự thay đổi trong phong cách từ những nét cọ mềm, bị kiểm soát và ngay cả bề mặt bức Chân dung của người đưa thư đến phong cách cuồng phóng, bề mặt thô ráp, những nét cọ rộng và sử dụng dao bảng màu trong bức Bà Roulin với em bé (Madame Roulin with Baby) [66]

  • Chân dung mẹ họa sĩ, Tháng 10, 1888, Bảo tàng nghệ thuật Norton Simon, Pasadena, California
  • Eugène Boch, (Nhà thơ trên nền đêm đầy sao), 1888, Musée d'Orsay, Paris
  • Chân dung của người đưa thư Joseph Roulin (1841–1903) đầu tháng 8 năm 1888, Bảo tàng Mỹ thuật, Boston
  • La Berceuse (Augustine Roulin) 1889, Bảo tàng Mỹ thuật, Boston

Chân dung tự họa

Chân dung tự họa, 1889, Musée d'Orsay, Paris

Van Gogh đã tạo ra hơn 43 bức chân dung tự họa trong khoảng thời gian từ 1885 đến 1889.[67] Hiếm có họa sĩ nổi tiếng có thể vượt qua số chân dung tự họa như vậy, Rembrandt là một ví dụ, ông có hơn 50 bức tự họa nhưng lại được vẽ trong khoảng 40 năm[67]. Chúng thường được hoàn thành theo chuỗi, chẳng hạn như những bức vẽ ở Paris vào giữa năm 1887, và tiếp tục như vậy cho đến một thời gian ngắn trước khi ông mất [68] Nói chung, những bức chân dung là những nghiên cứu, thử nghiệm của ông. Chúng được vẽ trong những giai đoạn hướng vào nội tâm khi ông không muốn hòa hợp với người khác, hoặc khi thiếu các hình mẫu, vậy là ông tự vẽ bản thân.[62][69]

Chân dung tự họa phản ánh mức độ tự-xét-mình cao bất thường[70]. Thường thì chúng được dùng để đánh dấu những giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của ông, ví dụ như loạt tranh Paris vào giữa năm 1887 được vẽ ở điểm ông được biết đến Claude Monet, Paul Cezanne và Signac[71]. Trong bức Chân dung tự họa với mũ nỉ xám (Self-Portrait with Grey Felt Hat) các lớp sơn lớn còn tràn ra ngoài tấm voan (canvas). Đó là một trong những bức chân dung tự nổi tiếng nhất của ông trong thời kỳ đó, "với những cú đánh bút nhịp nhàng được tổ chức tuyệt vời, và hào quang kì lạ xuất phát từ các tác phẩm Tân-Ấn tượng chính là cái mà Van Gogh tự gọi là 'có mục đích' "[72]

Có thể chỉ nhìn các bức chân dung để đoán thực trạng của ông và có thể là cả tương lai của ông (Nhân tướng học).[67] Tình trạng tinh thần và thể chất của Van Gogh thường hiện rõ ràng; ông có thể hiện lên khá bù xù, râu không cạo hoặc không được chăm sóc, với đôi mắt sâu hoắm, hàm dưới yếu, hoặc bị mất răng. Một vài bức cho thấy ông với môi đầy đủ, khuôn mặt dài hoặc hộp sọ nổi lên, hoặc trông gai góc, đó là các dấu hiệu cảnh báo điềm dữ. Tóc của ông có thể là màu đỏ thông thường, hoặc vào một vài thời điểm là màu tro.[67]

Cái nhìn của Van Gogh ít khi hướng vào người xem. Chân dung khá phong phú về cường độ và sắc độ, và trong những bức vẽ sau tháng 12 năm 1888 đặc biệt, những màu sắc sống động làm nổi bật làn da xanh xao của ông.[69] Một số bức mô tả ông với râu, một số khác không có. Đôi khi ta có thể được nhìn thấy băng gạc trong các bức chân dung được thực hiện ngay sau khi ông cắt tai. Chỉ có một vài bức ông khắc họa mình như một họa sĩ [67]. Những bức vẽ Saint-Rémy cho thấy đầu từ bên phải, bên đối diện với tai bị hủy của ông, đó là ông vẽ mình phản chiếu qua tấm gương [73][74].

  • Chân dung tự họa với mũ nỉ xám, 1887-88, Bảo tàng Van Gogh, Amsterdam
  • Chân dung tự họa với mũ rơm, Paris, mùa đông1887–88. Bảo tàng Nghệ thuật Trung tâm, New York
  • Chân dung tự họa, 1889. Trung tâm Nghệ thuật Quốc gia, Washington, D.C. Những bức tự họa khi ông ở Saint-Rémy cho thấy bên tai lành lặn của ông, khi ông nhìn mình qua gương.
  • Chân dung tự họa không có râu, tháng 9 năm 1889. Đây có lẽ là bức chân dung tự họa cuối cùng của Van Gogh. Ông đã tặng nó cho mẹ làm quà sinh nhật.

Những bông hoa

Tĩnh vật: Lọ với mười lăm bông hoa hướng dương, tháng 8 năm 1888, Phòng tranh Quốc gia, London

Van Gogh đã vẽ nhiều tranh phong cảnh với hoa, có thể đến hoa hồng, hoa violet, hoa diên vĩhoa hướng dương. Một số phản ánh sự quan tâm của ông bằng ngôn ngữ của màu sắc, và cũng tương tự như tranh ukiyo-e của Nhật [75]. Có hai chuỗi tranh vẽ hoa hướng dương đang dần tàn. Chuỗi tranh đầu tiên được thực hiện ở Paris vào năm 1887 và vẽ những bông hoa nằm trên mặt đất. Tập thứ hai được hoàn thành một năm sau ở Arles, vẽ bó hoa trong bình đặt trong ánh nắng buổi sáng sớm [76]. Theo Phòng tranh Quốc gia London, cả hai đều được vẽ bằng một lớp sơn rất dày (Impasto), gợi lên "bề mặt của rất nhiều đầu hạt".[77]

Trong những loạt tranh này, Van Gogh không tính toán trước sẽ vẽ gì vì mối quan tâm bình thường của ông khi sơn các bức tranh của ông là chủ quan và cảm xúc. Rất hiếm tranh trong loạt tranh này nhằm mục đích thể hiện kỹ thuật và phương pháp của ông với Gauguin,[78] một họa sĩ sắp tới thăm. Những bức tranh năm 1888 được tạo ra trong một thời kỳ lạc quan hiếm có của nghệ sĩ. Vincent đã viết cho Theo vào tháng 8 năm 1888, "Anh đang vui vẻ vẽ bức tranh của một người Mác-xây (Marseille) ăn bouillabaisse (một món súp), điều đó sẽ không làm em ngạc nhiên nếu đó là câu hỏi về việc vẽ những bông hoa hướng dương lớn... Nếu anh thực hiện kế hoạch này, có thể sẽ có một tá hoặc một loạt tranh như vậy. Tất cả sẽ là một bản giao hưởng của màu xanh lam và màu vàng. Anh đã vẽ chúng suốt cả những buổi sáng này, từ lúc mặt trời mọc. Vì hoa sẽ héo nhanh chóng nên vấn đề là phải làm toàn bộ việc trong một lần duy nhất. " [79]

Các tranh hoa hướng dương được vẽ để trang trí các bức tường trong chuẩn bị cho chuyến thăm của Gauguin, và Van Gogh đặt một số tác phẩm xung quanh phòng khách của Nhà tiếp khách màu Vàng ở Arles. Gauguin đã rất ấn tượng và sau đó mua lại hai phiên bản ở Paris.[78] Sau khi Gauguin ra về, Van Gogh đã tưởng tượng hai phiên bản chính của hoa hướng dương như hai bên của La Berceuse và đưa chúng vào triển lãm Les XX tại Brussels. Ngày nay, những tác phẩm chính của bộ tranh là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, chúng được tôn vinh vì màu vàng với sắc nghĩa ảm đạm, sự kết hợp của bức tranh với Nhà Vàng ở Arles, những nét quét bút biểu hiện mạnh mẽ, và sự tương phản tuyệt vời sáng-tối giữa hoa và nền.[80]

  • Tĩnh vật: Lọ với mười bốn bông hoa hướng dương, tháng 8 năm 1888. Neue Pinakothek, Munich
  • Hoa diên vĩ, 1889. Bảo tàng J. Paul Getty, Los Angeles
  • Hoa hạnh nhân (Almond Blossom), 1890. Bảo tàng Van Gogh, Amsterdam
  • Tĩnh vật: Lọ hoa diên vĩ trên nền vàng, tháng 5 năm 1890, Bảo tàng Van Gogh, Amsterdam
  • Tĩnh vật: Hồng hoa trong lọ, tháng 5 năm 1890, Bảo tàng Nghệ thuật Trung tâm, New York

Cây bách hay hoàng đàn

Con đường cùng cây bách và sao, tháng 5 năm 1890, Bảo tàng Kröller-Müller, OtterloNhững cây oliu vùng Alpilles, 1889. Bảo tàng Mỹ thuật Hiện đại, New York

Có mười lăm tấm canvas mà ông mô tả cây bách, loài cây mà ông đã bị mê hoặc khi thấy chúng ở Arles [81]. Ông đã mang sự sống cho những cây cối, vốn được coi là biểu tượng của cái chết [82]. Loạt tranh cây bách mà ông bắt đầu ở Arles miêu tả những cây ở phía xa, ví dụ như những cây chắn gió ở đồng ruộng; khi ông ở Saint-Rémy, ông đã đưa chúng đến gần hơn.[83] Vincent đã viết cho Theo tháng 5 năm 1889: "Những cây bách đó vẫn còn làm anh bận tâm, anh nên làm một cái gì đó với chúng như anh đã làm với những bức tranh hoa hướng dương"; ông tiếp tục nói, "Chúng thật xinh đẹp và cân đối, giống như một cột tưởng niệm Ai Cập vậy"[84]

Vào giữa năm 1889, và theo yêu cầu của chị gái Wil, Van Gogh đã vẽ một số phiên bản nhỏ hơn của bức Đồng lúa mỳ với những cây bách (Wheat Field with Cypresses) [85] Các tác phẩm được đặc trưng bởi những vòng xoáy và sử dụng kỹ thuật impasto với lớp sơn dầu rất dày. Cũng phải kể đến Đêm đầy sao, trong đó cây bách là điểm nhấn nổi bật trên mặt đất.[81]

Các tác phẩm khác trong thời kỳ này bao gồm Những cây oliu ở vùng Alpilles (Olive Trees with the Alpilles in the Background) (1889), trong bức thư gửi em trai Van Gogh viết: "Cuối cùng, anh cũng có một bức phong cảnh với cây ô liu" [86]), Những cây bách (Cypresses) (1889), Cây bách với hai hình mẫu (Cypresses with Two Figures) (1889-90), và Con đường cùng cây bách và sao (Road with Cypress and Star) (1890).[86] Trong khi ở Saint-Rémy, Van Gogh đã dành thời gian đi ra ngoài nhà thương, nơi ông vẽ là trong các vườn ươm oliu. Trong các tác phẩm đó, cuộc sống thiên nhiên được thể hiện dữ dội, thô ráp, xoáy chặt lẫn nhau. Có vẻ đó là một thế giới tự nhiên đã được nhân hóa. Theo Hughes, các tác phẩm đó chứa đựng "một dòng năng lượng liên tục mà tự nhiên chỉ là biểu hiện của nó" [82].

  • Cây bách trong đêm đầy sao, bức vẽ bằng bút sậy của Van Gogh sau bức Đêm đầy sao năm 1889
  • Cây bách và hai người phụ nữ, 1890. Bảo tàng Kröller-Müller, Otterlo, Hà Lan
  • Đồng lúa mỳ cùng cây bách, 1889. Bảo tàng Nghệ thuật Trung tâm, New York
  • Cây bách, 1889. Bảo tàng Nghệ thuật Trung tâm, New York

Những cây ăn quả

Cây đào hồng trổ hoa (Hồi niệm về Mauve), màu nước, tháng 3 năm 1888. Bảo tàng Kröller-Müller

Cây ăn quả trổ hoa (Flowering Orchards) là một trong những loạt tác phẩm hoàn thành đầu tiên sau khi Van Gogh tới Arles vào tháng 2 năm 1888. 14 bức tranh lạc quan, vui tươi và cho ta nhìn thấy mùa xuân đang vươn mình. Chúng có phần nhạy cảm và thật tinh tế. Các bức tranh này không vẽ con người. Ông đã vẽ khá nhanh, và mặc dù ông khắc họa loạt tranh này đi theo trường phái Ấn tượng, một phong cách cá nhân mạnh mẽ đã bắt đầu xuất hiện trong thời kỳ này. Những bông hoa chóng tàn, trời đất thì vẫn xoay vần, dường như những điều này phù hợp với cảm giác vô thường và niềm tin của ông vào một khởi đầu mới ở Arles. Trong lúc trăm hoa đua nở của mùa xuân, ông đã tìm thấy "một thế giới của các họa tiết không thể Nhật Bản hơn" [87]. Vincent đã viết cho Theo ngày 21 tháng 4 năm 1888 rằng ông đã vẽ 10 vườn cây và "một bức tranh của một cây anh đào lớn, mà anh đã làm hỏng"[88].

Trong thời kỳ này, Van Gogh đã thuần thục được việc sử dụng ánh sáng bằng cách chinh phục những khoảng tối và vẽ những cây như thể chúng là nguồn ánh sáng - gần như theo một cách thiêng liêng.[87] Đầu năm sau, ông vẽ một nhóm vườn nhỏ khác, bao gồm bức Cảnh quan Arles, cây ăn quả ra hoa (View of Arles, Flowering Orchards) [89]. Van Gogh bị mê hoặc bởi phong cảnh và thực vật ở miền nam nước Pháp, và thường xuyên thăm viếng các vườn nông gần Arles. Trong ánh sáng sống động của khí hậu Địa Trung Hải, bảng màu của ông đã sáng lên rõ rệt [90].

  • Vườn mơ ra hoa, tháng 3 năm 1888. Bảo tàng Van Gogh Amsterdam
  • Vườn cây đơm hoa, bao quanh bởi hàng cây bách, tháng 4 năm 1888. Bảo tàng Kröller-Müller, Otterlo, Hà Lan
  • Cảnh quan Arles, cây ăn quả ra hoa, 1889. Neue Pinakothek, Munich

Đồng lúa mỳ

Đồng lúa mỳ dưới bầu trời vần vũ, 1890, Bảo tàng Van Gogh, Amsterdam, Hà Lan

Van Gogh đã vẽ một số bức tranh trong các lần đi vãn cảnh quanh vùng Arles. Ông đã vẽ tranh về mùa gặt, những cánh đồng lúa mỳ và các địa danh nông thôn khác trong khu vực, có thể kể đến bức Cối xay cũ (The Old Mill) (1888); một ví dụ điển hình về một kiến trúc đẹp nên thơ còn xa xa đằng sau là cánh đồng lúa mỳ.[91] Tại những địa điểm khác nhau, Van Gogh vẽ bức tranh từ góc nhìn cửa sổ nhà mình - như tại The Hague, Antwerp, và Paris. Những tác phẩm kiểu này đã lên đến đỉnh cao trong loạt tranh Đồng lúa mỳ (The Wheat Field), mô tả góc nhìn qua cửa sổ của phòng ông trong nhà thương tại Saint-Rémy [92].

Dù rất nhiều bức tranh sau này mang sắc ảm đạm nhưng chủ yếu thì có màu lạc quan, và, đặc biệt là lúc gần cái chết của Van Gogh, phản ánh mong muốn trở lại với trang thái tinh thần bình thường. Tuy nhiên, trong một số tác phẩm cuối cùng, ông đã cho thấy mối quan tâm sâu sắc của mình [93][94]. Viết vào tháng 7 năm 1890, từ Auvers, Van Gogh nói rằng ông đã bị hút hồn "trong một miền đất phẳng rộng lớn đang tựa vào những ngọn đồi, vô biên như biển, với sắc vàng thật tinh tế" [95].

Van Gogh bị thu hút bởi các cánh đồng vào tháng 5 khi lúa mì còn non và xanh. Bức Đồng lúa mỳ tại Auvers với nhà Trắng (Wheatfields at Auvers with White House) cho thấy một bảng màu vàng và lam dịu hơn, tạo ra sự hài hòa nhẹ nhàng [96].

Khoảng tháng 7 năm 1890 Van Gogh đã viết cho Theo về "những cánh đồng lúa mì rộng lớn dưới bầu trời vần vũ"[97] Đồng lúa mỳ với những con quạ (Wheatfield with Crows) cho thấy tâm trạng của người họa sĩ trong những ngày cuối đời; Hulsker mô tả tác phẩm là một "bức tranh tang tóc với bầu trời đầy ám ảnh cùng những con quạ mang điềm dữ" [98]. Bảng màu tối và những nét cọ nặng cho thấy ý nghĩa đe dọa [99].

  • Khoảng đồng lúa mỳ lúc bình minh, tháng 5 năm 1889, Bảo tàng Kröller-Müller, Otterlo, Hà Lan.
  • Mưa hoặc Khoảng đồng lúa mỳ trong mưa, tháng 11 năm 1889, Bảo tàng Mỹ thuật Philadelphia, Philadelphia
  • Đồng lúa mỳ, đầu tháng 6 năm 1889. Bảo tàng Kröller-Müller, Otterlo
  • Đồng lúa mỳ với nhà Trắng, tháng 6 năm 1890, Bộ sưu tập Phillips, Washington D.C.
  • Đồng lúa mỳ với những con quạ, tháng 7 năm 1890, Bảo tàng Van Gogh, Amsterdam. Đây được cho là bức tranh cuối cùng của ông

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vincent_van_Gogh //nla.gov.au/anbd.aut-an35130087 http://www.arthistoryarchive.com/arthistory/expres... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/237118 http://www.imdb.com/name/nm0994883/ http://www.vggallery.com/ http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... //www.getty.edu/vow/ULANFullDisplay?find=&role=&na... http://catalogo.bne.es/uhtbin/authoritybrowse.cgi?... http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb11927591g http://data.bnf.fr/ark:/12148/cb11927591g